Hai lý do đặt tên “Luật bàn tay”
Trước hết, bàn tay rất gần gũi, gắn bó với trẻ, nhất là các bé khuyết tật (khiếm thị, khiếm thính, chậm trí).
Các bé “chơi” với tay mình từ lúc lọt lòng bằng cách mút tay, cầm
nắm. Bàn tay dùng để tìm hiểu bản thân và “khám phá thế giới” qua việc
đụng chạm, sờ, vuốt ve.
Bàn tay để tham gia trò chơi (ù à ù ập, chi chi chành chành, nặn đất,
xếp hình, trong bài hát quen thuộc “xòe bàn tay, đếm ngón tay”, bấm
phím điện tử,…).
Bàn tay là “dụng cụ học tập” thực hành các phép tính cộng trừ nhân
chia thời “vỡ lòng”. Bàn tay cùng với đôi mông còn là nơi nhận các “hình
thức kỷ luật” như khẻ tay, tét đít. Nhờ vậy trẻ dễ cảm nhận và phân
biệt khi được hướng dẫn.
Thứ hai, năm ngón tay tương ứng 5 vòng tròn giao tiếp của trẻ.
Luật bàn tay gồm những gì?
Giống như khi ta ném viên sỏi xuống mặt nước, những gợn sóng vòng
tròn cứ mở rộng ra mãi, mối liên hệ của một con người cũng mở rộng dần
theo năm tháng.
Lúc chào đời chỉ biết những người trong nhà (bố mẹ, ông bà, anh chị em) và họ hàng thân cận (cô, dì, chú bác).
Lớn hơn chút nữa, tiếp xúc với những người hàng xóm và bạn bè của gia
đình. Đến tuổi đi học, gặp gỡ bạn bè, thầy cô giáo, người quen, người
lạ.
Khi trưởng thành, “ra đời” đi làm sẽ có các mối quan hệ với đồng
nghiệp, khách hàng, người phụ trách, đối tác, “kẻ thù”. Về mặt tình cảm,
sẽ có bạn thân (cùng giới, khác giới), người yêu, ý trung nhân, kết
hôn, sinh con. Vòng đời lại tiếp tục mở ra những vai trò mới.
Năm ngón trên bàn tay giúp trẻ dễ dàng nhớ được 5 vòng tròn giao tiếp khi bé tương tác với người khác:
1. Tâm vòng tròn: dành cho người ruột thịt (bố đẻ, mẹ đẻ, anh chị em
ruột), trẻ được quyền (hoặc cho phép) VÒNG TAY ôm hôn, bế ẵm, cõng, tắm
khi chưa tự mình làm vệ sinh, ngồi vào lòng, ngủ chung,... Đây là điều
tế nhị bảo vệ bố dượng/ mẹ kế khi tiếp xúc với con riêng của người kia,
vì ngay cả con ruột, dân gian Việt Nam vẫn phòng xa khi con cái đến tuổi
lớn kia mà: "Con gái 13 không qua giường bố, con trai 17 không nhảy
giường mẹ".
2. Vòng tròn tiếp theo, dành cho người thân cận như bà con họ hàng,
thầy cô, bạn bè: bé được quyền NẮM TAY, “cho phép” vuốt tóc, vỗ vai thân
mật, xoa đầu khích lệ.
3. Vòng tròn thứ 3 dành cho người quen (hàng xóm tin cậy, bạn đồng
nghiệp của cha mẹ, đã được gia đình sàng lọc), bé được quyền BẮT TAY,
chào hỏi, trò chuyện,...
4. Vòng tròn thứ 4: dành cho người lạ, bé chỉ cần VẪY TAY chào, tạm biệt.
5. Ngoài tất cả các vòng tròn này, với những "người đáng ngại", bé
XUA TAY, không tiếp xúc (chứ không phải là xua đuổi, chọc phá, kỳ thị
người ta). Người đáng ngại không phải là người đen đủi xấu xí, ngớ ngẩn,
tâm thần hay làm cái nghề nào đó, mà là tự trẻ cảm thấy không thích,
bất an, không thoải mái. Khi bị họ cố tình đụng chạm vào người nhất là
vùng quần áo lót, trẻ có quyền “tỏ thái độ” bằng cách bảo người đó dừng
lại. Nếu họ vẫn tiếp tục, hãy hét to lên rồi bỏ chạy, sau đó kể lại cho
người lớn biết.
Người thân, người quen, người lạ mà gây cho bé cảm giác ấy cũng bị
coi là “người đáng ngại”. Phụ huynh phải tin vào cảm nhận này của trẻ và
đừng ép con phải xã giao với họ mà chưa hỏi rõ vì sao con “ngại’.
Hướng dẫn thế nào?
Cần nhớ những điểm nhấn về các mức độ giao tiếp liên quan đến “tay”
(vậy mới gọi là Luật bàn tay): VÒNG TAY, NẮM TAY, BẮT TAY, VẪY TAY, XUA
TAY.
“Luật” cần được đưa vào đầu óc non nớt của bé qua các hoạt động sống
hằng ngày. Để bé dễ nhớ, cha mẹ có thể chơi trò xếp các nhân vật (cha
mẹ, thầy cô, người quen, người lạ, “người đáng ngại”) vào các vòng tròn
vẽ trên giấy, trên bảng, thậm chí trên đất, cát và cách giao tiếp phù
hợp. Chơi trò “đố em”. Nhắc đi nhắc lại và thực tập cùng với bé mỗi khi
gặp từng “đối tượng”. Khen ngợi thật lòng khi bé làm tốt. Ngoài ra, cha
mẹ có thể thường xuyên đặt câu hỏi tình huống cho trẻ trổ tài ứng xử,
chơi trò sắm vai các nhân vật khác nhau để bé tập giải quyết tình huống,
Vài ngoại lệ:
Lớn thêm vài tuổi, nếu không phải là người trong gia đình và người
yêu, khoảng cách tiếp xúc giữa hai người nên cách xa ít nhất 20cm, tức
là 1 gang tay. Cũng có lúc không giữ được khoảng cách này vì:
· Chen chúc chỗ đông người (va chạm vào người khác trên xe
buýt, trong thang máy, nơi lễ hội,… ), hãy xin lỗi vì đã làm phiền họ.
· Người khác cần thì mình nên “giúp một tay” (đỡ em bé bị té ngã, dắt cụ già qua đường).
· Tương tác khi sinh hoạt tập thể (nắm tay múa hát, tham gia trò chơi, nối vòng tay lớn).
“Luật bàn tay” phù hợp cả với trẻ lớn, vị thành niên và người trưởng
thành, do đó cần thường xuyên “văn ôn võ luyện” cho con trẻ.
Sau bài học giới tính đầu tiên này, cha mẹ cần tiếp tục dạy con nhận
biết các nguy cơ và cách phòng tránh bị xâm hại: không lên xe của người
xa lạ cho dù họ có xe đẹp và cho quà bánh, la hét và chạy đi ngay cả khi
họ nói rằng ba mẹ đang bị ốm và họ sẽ đưa về nhà, không bước vào nhà ai
vì bất cứ lý do gì nếu cha mẹ chưa đồng ý, không mở cửa hay trả lời
điện thoại cho người khác biết là đang ở nhà một mình, báo cho cha mẹ
biết cảm giác bất an với ai đó trên Internet...